Theo truyền thống hàng năm, tết Nguyên Đán thường bắt đầu từ ngày 23 tháng Chạp kéo dài đến ngày mùng 7 tháng Giêng. Đây là dịp mà các gia đình, bạn bè được quây quần bên nhau, cùng nhau bước sang năm mới và dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp. Trong khoảng thời gian này cũng có rất nhiều hoạt động thường niên được diễn ra, mỗi hoạt động đều mang một ý nghĩa riêng, đặc trưng cho văn hóa của dân tộc.
1. DỰNG CÂY NÊU
Dựng cây nêu ngày Tết là một phong tục lâu đời của người Việt Nam. Theo tài liệu văn hóa dân gian, cây nêu ngày Tết mang triết lý âm dương, qua hai chữ Càn (Trời) và Khôn (Đất) nằm trong hình ảnh cái nón và cây gậy của Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Nó bao hàm sự thống nhất và tương trợ giữa Âm và Dương hay sự không tách rời giữa Động và Tĩnh… cây nêu còn gắn với truyền thuyết dân gian ngăn ngừa không cho quỷ ở biển Đông vào đất liền, bén mảng tới nơi con người cư trú làm ăn, sinh sống. Theo thời gian, từng địa phương phong tục, tập quán ở mỗi dân tộc, ý nghĩa của trồng cây nêu ngày Tết trải rộng hơn, đa dạng hơn.
Dựng cây nêu là phong tục có từ lâu đời của người Việt Nam. (Ảnh: internet)
Mỗi vùng lại có một văn hóa dựng cây nêu riêng. Người Kinh dựng nêu vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, để ngăn ngừa ma quỷ tới quấy rầy gia chủ trong những ngày ông Công - ông Táo lên chầu trời. Một số dân tộc khác như Tày, Nùng ở miền núi phía Bắc như: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Lào Cai, Yên Bái lại trồng cây nêu vào chiều 30 tháng Chạp âm lịch. Người Mông dựng cây nêu trong lễ hội Gầu tào từ ngày 3 đến ngày 5 tháng Giêng âm lịch, ngày 7/1 âm lịch là ngày hạ nêu, đồng bào dân tộc Sán Dìu dựng cây nêu trong lễ Cầu mùa. Ngoài ra cây ném trong hội lồng tồng, cây pồn pông của người Mường, cây đâm trâu của người dân tộc ở Tây Nguyên đều là những hình thức biểu hiện của cây nêu.
Ngọn nêu vươn cao, mang theo ước vọng về một năm mới bình yên, hạnh phúc, thuận hòa. (Ảnh: internet)
Theo các tài liệu Châu bản triều Nguyễn về Tết Nguyên đán trong Hoàng cung triều Nguyễn, trong suốt 143 năm tồn tại, tục lệ dựng cây nêu được duy trì hằng năm. Theo đó, trong ngày 30 Tết, Hoàng cung diễn ra các nghi lễ thiêng liêng, với ý nghĩa tống tiễn điều xấu năm cũ, đón điều tốt đẹp của năm mới. Lễ xong triều đình làm lễ Thượng tiêu (dựng cây nêu), ngọn nêu treo ấn, tín, văn phòng tư bảo hình tượng việc phong ấn để triều đình nghỉ ngơi. Khi thấy trong Hoàng cung dựng cây nêu người dân cũng theo đó dựng nêu, đón Tết. Lễ Hạ tiêu diễn ra vào ngày mồng 7 tháng Giêng, khi tổ chức Thượng tiêu và Hạ tiêu có đại nhạc, tiểu nhạc và các nghi thức trang trọng khác.
2. CÚNG ÔNG TÁO
Cúng ông Công, ông Táo là một phong tục có từ rất lâu đời ở Việt Nam. Theo truyền thuyết kể lại, ông Công là vị thần cai quản đất đai trong nhà, còn ông Táo là ba vị đầu rau trông coi việc bếp núp. Ông Công, ông Táo được ông Trời phái xuống trần gian theo dõi và ghi chép những việc làm Thiện - Ác của con người. Và hàng năm, cứ vào ngày 23 tháng Chạp, các vị thần này lại cưỡi cá chép lên Thiên đình báo cáo tất cả việc làm tốt và chưa tốt của con người trong suốt một năm qua để Thiên đình định đoạt công, tội. Do đó, trong quan niệm của người Việt, ông Công và ba vị Thần Táo (hay vua Bếp) là những vị thần định đoạt cát hung, phước đức cho gia đình.
Mâm cúng ông Táo thường được chuẩn bị trang trọng, đủ đầy với mong muốn tạ ơn các vị thần và kết thúc một năm phước đưc. (Ảnh: internet)
Với mong muốn cho gia đình mình được nhiều may mắn, nên hằng năm, cứ đến ngày 23 tháng Chạp, người ta lại làm lễ tiễn ông Công, ông Táo lên chầu trời. Lễ cúng ông Táo thường được tiến hành trước 12 giờ trưa ngày 23 tháng Chạp Âm lịch (có thể cúng vào trưa, tối ngày 22 tháng Chạp hoặc sáng 23 tháng Chạp) bởi dân gian quan niệm sau 12 giờ trưa là ông Táo lên chầu trời nên sẽ không nhận được đồ cúng. Theo truyền thuyết, cá chép là phương tiện duy nhất có thể đưa Táo Quân về trời. Bởi thế, vào ngày này, các gia đình đều cúng cá chép. Một số gia đình có thể mua cá chép giấy, tuy nhiên phần lớn các gia đình thường mua 3 con cá chép thả vào chậu nước đặt cạnh mâm cỗ, sau khi làm lễ xong đem ra sông thả, ngụ ý cá sẽ hóa rồng, vượt vũ môn, làm phương tiện cho Táo Quân cưỡi về trời.
Người dân thả cá chép để đưa ông Táo về trời. (Ảnh: internet)
3. GÓI BÁNH CHƯNG
Phong tục gói bánh chưng ở nước ta gắn với truyền thuyết “Bánh chưng, bánh dày” từ thời Vua Hùng mang giá trị văn hóa truyền thống trường tồn với thời gian. Trải qua ngàn năm Bắc thuộc và thời kỳ đô hộ của thực dân phương Tây, phong tục gói bánh chưng dâng cúng tổ tiên ngày Tết vẫn không hề mai một trong tâm thức mỗi người dân đất Việt. Tục gói chưng ngày Tết đã trở thành nét văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, được lưu truyền qua nhiều thế hệ người Việt, thể hiện nét đẹp của nền văn minh lúa nước. Mỗi khi Tết đến Xuân về, người người, nhà nhà lại gói bánh chưng ăn Tết, dâng bánh lên bàn thờ tổ tiên.
Gói bánh chưng là hoạt động thường niên vào dịp tết chó lịch sử từ thời vua Hùng và duy trì đến ngày nay. (Ảnh: internet)
Trong xã hội hiện đại nhiều phong tục truyền thống dần bị mai một, nhưng một tập quán xa xưa vẫn được người Việt lưu giữ tới nay và mãi về sau đó là tục gói bánh chưng dâng cúng tổ tiên ngày Tết. Một nét đẹp truyền thống không thể thiếu mỗi dịp Tết đến xuân về, khi mọi người cùng nhau bên bếp lửa hồng của nồi bánh chưng nghi ngút khói tỏa thể hiện sự sum vầy, ấm áp và đoàn tụ.
Gói bánh chưng cũng là dịp để cả gia đình quây quần bên nhau. (Ảnh: internet)
Theo quan niệm xưa trong đón Tết cổ truyền, chiếc bánh chưng Tết thể hiện trời đất giao hòa, nói lên ước mơ của người người, nhà nhà về một năm mới sung túc, an lành, hạnh phúc. Bánh chưng làm từ những nguyên liệu gần gũi với đời sống người nông dân như gạo nếp, thịt lợn, đậu xanh, hành, hạt tiêu, lá dong, lạt giang và có khi thêm những nguyên liệu là quả gấc. Nét độc đáo ở bánh chưng Việt Nam đó là không lẫn, không phỏng theo bất kỳ loại bánh nào của quốc gia khác. Bánh chưng cũng gắn với đặc điểm từng vùng miền của người Việt, ví như người dân ở miền Nam ưa chuộng bánh chưng dài, người dân miền Bắc ưa thích bánh chưng vuông, người dân miền Trung thích loại bánh tét. Những chiếc bánh gói xong được buộc lạt từ cây tre trước khi chuẩn bị cho công đoạn luộc từ 10 đến 12 tiếng. Người Việt Nam thường bảo với nhau rằng, chỉ cần thấy bánh chưng, nghĩa là thấy tết về.
4. TẢO MỘ
Tảo mộ hay còn được gọi là chạp mả, là việc dọn dẹp, sửa sang lại phần mộ của tổ tiên vào ngày trước Tết. Sau khi dọn dẹp sạch sẽ xong, con cháu sẽ đem hương hoa, lễ vật đến và thắp hương để mời tổ tiên về nhà ăn Tết cùng gia đình. Đây chính là dịp để gia đình, con cháu đoàn tụ, sum vầy và giãi bầy những tâm tư, tình cảm với những người đã khuất trong một năm vừa qua. Tảo mộ còn có ý nghĩa thể hiện lòng hiếu kính, sự biết ơn của con cháu với ông bà, tổ tiên, nhắc nhở con cháu về đạo lý "chim có tổ, người có tông".
Tảo mộ là nét đẹp truyền thống, đặc trưng riêng của người Việt mỗi khi Tết đến xuân về. (Ảnh: internet)
Lâu dần, tảo mộ đã trở thành một nét đẹp truyền thống, đặc trưng riêng của người Việt mỗi khi Tết đến xuân về. Vì vậy dù có đi xa nhưng vào mỗi dịp Tết, người dân Việt Nam đều dành thời gian trở về quê hương để thăm viếng phần mộ của người đã khuất. Lễ vật đem đi tảo mộ không cần quá cầu kỳ nhưng cần phải thể hiện được sự thành kính của con cháu đối với ông bà, tổ tiên. Ngày tảo mộ thường diễn ra từ ngày 20 tháng Chạp đến tối 30 Tết tùy theo truyền thống của từng gia đình.
5. TẤT NIÊN
Tất niên (hay còn gọi là tiệc tất niên, lễ tất niên…) là một nghi thức được diễn ra nhằm ghi nhận việc hoàn tất các công việc năm cũ và chuẩn bị bước sang năm mới. Ở Việt Nam, Tất niên thường được tổ chức vào ngày cuối cùng của năm tính theo lịch Âm (tức là ngày 30 tháng 12 Âm lịch, hay còn gọi là ngày 30 Tết). Một số năm thiếu như năm 2022 thì Tất niên sẽ được tổ chức vào ngày 29 tháng 12 Âm lịch. Bữa cơm Tất niên chiều 30 tết là bữa cơm gắn kết mọi thành viên, thế hệ trong gia đình. Theo quan niệm xưa, những gia đình nào càng đông đủ con cháu, các thế hệ cùng dùng bữa cơm này chứng tỏ gia đình ấy nhiều phúc, lộc và may mắn.
Tất niên là dịp gia đình quây quần bên nhau trong những ngày cuối năm. (Ảnh: internet)
Đây là thời điểm các thành viên trong gia đình đoàn tụ sau một năm khó có thời gian gặp gỡ, chuyện trò. Tuỳ vào mỗi vùng miền mà mâm tất niên có mời thêm khách là hàng xóm hay bạn bè thân thiết đến dự. Mọi người sẽ cùng nhau ôn lại kỷ niệm, bỏ qua những hiểu lầm, xích mích, những chuyện không vui của năm cũ, hứa hẹn tương lai tốt đẹp và cùng nhau chào đón năm mới. Mâm lễ cúng Tất niên tùy theo điều kiện gia đình cũng như phong tục tập quán mỗi vùng mà thịnh soạn hay thanh đạm. Thế nhưng, một số thành phần bắt buộc phải có khi cúng theo phong tục của người Việt Nam gồm: hương hoa, vàng mã, đèn nến, trầu cau, rượu, trà, bánh chưng… được bầy biện trang nghiêm.
Tùy vào phong tục của mỗi vùng văn hóa, mỗi gia đình mà mâm tất niên cũng sẽ được bày soạn những món ăn khác nhau. (Ảnh: internet)
Không chỉ mang ý nghĩa sum họp gia đình, bữa cơm tất niên còn là nghi thức để kết thúc năm cũ, đón năm mới, mời ông Công ông Táo về trần thế tiếp tục cai quản bếp núc. Sau bữa cơm tất niên, gia đình sẽ sửa soạn để cúng giao thừa, tiễn năm cũ và đón chào năm mới. Đây cũng là dịp để con cháu tri ân tổ tiên đã phù hộ mình trong năm qua. Ngày Tất niên là ngày quan trọng đối với người dân Việt Nam, nơi những người con, người cháu xa quê lập nghiệp về với ông bà, cha mẹ. Do đó, dù có làm gì, đi đâu thì mọi người ai cũng nhớ cùng ngồi dùng bữa cơm 30 Tết cùng gia đình.
6. ĐÓN GIAO THỪA
Ngày Tất niên là ngày quan trọng đối với người dân Việt Nam, nơi những người con, người cháu xa quê lập nghiệp về với ông bà, cha mẹ. Do đó, dù có làm gì, đi đâu thì mọi người ai cũng nhớ cùng ngồi dùng bữa cơm 30 Tết cùng gia đình. Với người Việt Nam, giao thừa là phút giây thiêng liêng. Vào đêm 30 Tết, hay còn gọi là đêm trừ tịch, được coi là khoảng thời gian thiêng liêng nhất của năm khi các gia đình sum họp, chuẩn bị đón năm mới với những điều tốt lành sẽ đến và tiễn trừ năm cũ.
Bắn pháo hoa đêm giao thừa tại TP. Hồ Chí Minh. (Ảnh: internet)
Việc cúng lễ giao thừa thường được coi trọng và chuẩn bị cầu kỳ. Cúng giao thừa hay còn gọi là cúng trừ tịch có ý nghĩa đem bỏ hết những điều xấu của năm cũ để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Lễ cúng giao thừa thường được tiến hành vào giờ chính Tý, tức 12 giờ đêm 30 tháng Chạp. Người Việt tin rằng, mỗi năm có các vị thần Hành binh, Hành khiển, Phán quan cai quản hạ giới khác nhau. Cứ hết một năm, vị Hành khiển cũ đã cai quản hạ giới trong năm cũ sẽ bàn giao công việc cho vị Hành khiển mới đi xuống cai quản hạ giới trong năm mới. Vì vậy, người dân làm lễ Trừ tịch với ý nghĩa để vị thần cũ giao lại công việc để thần mới tiếp nhận (trừ là trao lại chức quan, tịch là ban đêm).
Mâm cúng đêm giao thừa sẽ được chuẩn bị thịnh soạn, chỉn chu. (Ảnh: internet)
Cúng giao thừa trong dân gian như là buổi tiệc để “tống cựu nghinh tân”, tiễn đưa những vị thần năm cũ và nghinh đón những vị thần mới. Xin các vị thần linh phù hộ cho gia đình một năm mới bình an, hạnh phúc. Người ta tin rằng mọi điềm hay, dở xảy ra vào giây phút này có liên quan tới mọi sự hay, dở của tất cả thành viên gia đình trong năm mới. Trong giây phút thiêng liêng ấy, mọi người đều quên đi tất cả những điều không hay trong năm cũ để hướng đến một năm mới may mắn, bình an.
7. XÔNG ĐẤT
Tục xông đất là phong tục có từ lâu đời của người Việt, ông cha ta quan niệm rằng người xông đất ngày mùng 1 của năm sẽ có những ảnh hưởng lớn đến các ngày còn lại. Người Việt Nam tin rằng ngày mùng 1 mọi chuyện suôn sẻ thì người ta tin rằng cả năm sẽ được an lành, nhiều điều may mắn, vạn sự như ý. Chính vì vậy, người xông đất được coi là người đại diện mang tới cho chủ nhà sự may mắn và an lành cho một năm.
Theo quan niệm truyền thống, sau thời điểm giao thừa thì người nào bước vào nhà của gia chủ đầu tiên cùng với lời chúc mừng năm mới thì đó là người xông đất. Thông thường gia chủ sẽ có ý định mời người nào đó xông đất cho nhà mình. Người được mời xông đất sẽ được gia chủ sẽ dựa vào sức khỏe, đức tài, sự thành đạt… để dự đoán vận hạn của gia đình mình trong năm. Người được nhờ đến xông đất cho gia chủ thường đến thăm gia đình vào buổi sáng mùng 1 đầu năm mới, mang theo chút quà nhỏ cho gia đình như bánh mứt, chè, thuốc và tiền lì xì cho trẻ nhỏ. Người “xông đất” sẽ chúc gia chủ một năm phát lộc, phát tài và những lời chúc mừng tốt đẹp cho gia chủ may mắn trong một năm mới.
Người xông đất được coi là người đại diện mang tới cho chủ nhà sự may mắn và an lành cho một năm. (Ảnh: laodong.vn)
Gia chủ cũng niềm nở đón tiếp người xông đất và chúc tụng lại vị khách xông nhà, mời khách những món ăn, các loại bánh mứt ngon nhất và cùng nhau uống một ly rượu vào đầu năm mới. Việc ăn uống này cũng chỉ mang tính tượng trưng cho có lệ, như ăn vài miếng bánh, miếng mứt, uống một ly rượu hay chén trà. Ông bà ta thường có kinh nghiệm rằng: Ai xởi lởi hồn nhiên, vô tư, thật thà, mặt mũi sáng sủa không có tang và con cái đông đủ cả trai lẫn gái là vía tốt. Đặc biệt người xông đất phải có tuổi hợp với chủ nhà và con vật đại diện của năm đó và tránh tuổi “tứ hành xung”. Tuổi người xông đất nên có Thiên can, Địa chi, Ngũ hành tương sinh đối với gia chủ. Cùng với đó Thiên can, Địa chi, Ngũ hành của năm cũng cần tương sinh với người đó. Hay những người có tên hay, đẹp như Cát, Lộc, Kim, Ngân, Phúc, Thọ, An, Khang… xông đất cũng là một niềm vui với gia chủ.
8. LÌ XÌ TẾT
Lì xì là một tên gọi của tục lệ trong dịp Tết Nguyên đán ở các nước Á Đông và Việt Nam, đó là lệ đặt tiền vào chiếc phong bì nhỏ có trang trí màu vàng son rực rỡ để mừng tuổi trẻ em. Việc lì xì không giới hạn trong mùng một Tết mà có thể lì xì trong suốt ba ngày đầu năm, thậm chí kéo dài đến tận những ngày mùng chín, mùng mười của Tết.
Mọi người dành tặng nhau những bao lì xì kèm những lời chúc tốt đẹp ngày đầu năm với mong muốn một năm thật an khang - hạnh phúc. (Ảnh: internet)
Tục lệ lì xì đầu năm mới đã có từ thời xa xưa, xuất xứ từ Trung Quốc. Tương truyền, có một con yêu quái chuyên xuất hiện vào đêm giao thừa, thích xoa đầu những đứa trẻ đang ngủ ngon giấc làm chúng bị sốt cao hoặc trở nên ngớ ngẩn. Vì thế những gia đình có con nhỏ phải thức cả đêm để canh không cho yêu quái làm hại con mình. Một lần, 8 vị tiên đi ngang thấy vậy liền hóa thành những đồng tiền nằm bên chỗ mấy đứa trẻ, cha mẹ chúng cũng đem gói những đồng tiền này vào tấm vải đỏ để xua đuổi yêu quái. Không ngờ phép lạ ấy lại thật sự hữu dụng. Khi con quái vật đến, những đồng tiền lóe lên khiến nó sợ phải bỏ chạy. Câu chuyện này nhanh chóng lan truyền khắp nhân gian. Từ đó, mỗi lần Tết đến, người ta lại bỏ tiền vào trong những cái túi màu đỏ tặng trẻ con, để trẻ chóng lớn và khỏe mạnh và hành động đó chính là lì xì, hay còn gọi là mừng tuổi đầu năm mới.
Tiền mừng tuổi thường cho số lẻ, ngụ ý tiền đó sẽ dư mãi ra. Có thể mừng tuổi bằng tiền hoặc bằng quà, nhưng phải chú trọng đến mặt hình thức, vì ngày Tết ai cũng thích đẹp. Người già khăn áo chỉnh tề ngồi trang trọng trên giường, trên ghế để con cháu đến mừng thọ. Ngược lại, con cháu cũng nhận được ở người trên những lời khuyên ân cần trong cuộc sống.
9. HÓA VÀNG
Cúng hóa vàng là tục lệ không thể thiếu khi ngày Tết kết thúc của người Việt. Lễ hóa vàng cũng đánh dấu kết thúc ngày Tết tại các gia đình nên người ta còn gọi là làm hết Tết. Có nhiều gia đình làm lễ hóa vàng từ ngày mùng 2 âm lịch. Nhưng chủ yếu là bắt đầu từ ngày mùng 3 Tết đến khoảng mùng 10 Tết Nguyên Đán.
Cúng hóa vàng là tục lệ không thể thiếu khi ngày Tết kết thúc của người Việt. (Ảnh: internet)
Ngày lễ tiễn ông bà, tổ tiên này rất quan trọng với người Việt. Người xưa quan niệm rằng, trong dịp Tết, các bậc gia thần, tổ tiên luôn ngự trên bàn thờ, vì thế đèn hương không bao giờ được tắt, các đồ dâng cúng như mâm ngũ quả, bánh kẹo… phải đợi đến này hóa vàng mới được đem xuống (trừ các đồ mặn, dễ thiu như thịt xôi…). Nếu đèn hương tắt, nhất là việc hạ lễ trước khi hóa vàng sẽ phạm phải điều bất kính. Sau khi lễ, việc hóa vàng cũng phải làm riêng. Phần tiền vàng của gia thần phải hóa trước của tổ tiên để tránh nhầm lẫn. Tục xưa, tại nơi đốt vàn mã, người ta thường đặt vài ba cây mía dài để làm “đòn gánh” cho các linh hồn mang hàng hóa theo.
Chính vì ngày hóa vàng vô cùng quan trọng với người Việt cho nên mâm cơm cúng hóa vàng cũng rất đầy đủ như mâm cỗ chính của ngày Tết. Trong mâm cơm hóa vàng, con gà cúng phải to, tròn, chắc nịch, có đôi chân đẹp và được bày biện cẩn thận. Mâm cơm cúng cũng phải đủ món luộc, xào, canh, miến, cùng với bình rượu, li nước, lọ hoa, trầu cau, bánh kẹo và mâm ngũ quả để tiễn chân ông bà. Tiền âm, vàng mã cũng phải được chuẩn bị chu đáo để ông bà có hành trang, lộ phí để lên đường.